Các tổ chức của Liên Hợp Quốc đánh giá cao thành tựu phát triển của Việt Nam

Cập nhật: 1 giờ trước

VOV.VN - Kể từ khi chính thức gia nhập Liên hợp quốc vào năm 1977, trong suốt gần nửa thế kỷ qua, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực và đạt được nhiều bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

 

Dấu ấn về phát triển bền vững

Với sự đồng hành và hỗ trợ thiết thực từ các cơ quan trực thuộc Liên hợp quốc như UNICEF, UNFPA, UNESCO, IOM… Việt Nam đã ghi dấu ấn trong nhiều lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bình đẳng giới và phát triển bền vững. Những thành tựu đó không chỉ nâng cao đời sống người dân mà còn góp phần khẳng định vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế.

Cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các tổ chức của Liên Hợp Quốc, đã đánh giá cao và xem đây là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của hợp tác đa phương trong việc thúc đẩy hòa bình, thịnh vượng và phát triển bao trùm. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Liên Hợp Quốc và 48 năm thiết lập quan hệ Việt Nam - Liên Hợp Quốc.

Từ khi gia nhập Liên Hợp Quốc vào ngày 20/9/1977, Việt Nam đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ quan, tổ chức trực thuộc Liên Hợp Quốc, đồng thời chủ động, tích cực đóng góp vào các hoạt động chung của tổ chức này. Ngay sau khi thống nhất đất nước, năm 1976 Việt Nam đã chính thức gia nhập UNESCO, khẳng định mong muốn hòa nhập quốc tế và quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới.

Từ khi Văn phòng UNESCO tại Hà Nội được thành lập năm 1999, tổ chức này đã hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, bảo tồn di sản, thúc đẩy phát triển bền vững. Đến nay, Việt Nam là quốc gia dẫn đầu Đông Nam Á với 71 danh hiệu UNESCO, trong đó chỉ riêng năm 2024, Việt Nam đã có 6 danh hiệu mới như Công viên địa chất toàn cầu Lạng Sơn, Lễ hội Vía Bà chúa Xứ núi Sam, và hai Thành phố học tập toàn cầu: TP. Hồ Chí Minh và Sơn La.

Chuyến thăm lịch sử của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Trụ sở UNESCO tháng 10/2024 đã đánh dấu bước phát triển mới, đưa quan hệ Việt Nam - UNESCO trở thành hình mẫu hợp tác hiệu quả, giúp Việt Nam tiếp cận tốt hơn với tri thức và nguồn lực toàn cầu.

Hiện, Việt Nam đang đảm nhiệm vai trò tại 5 cơ quan chủ chốt của UNESCO, cho thấy vị thế ngày càng cao trong tổ chức. Ông Khúc Tinh, Phó Tổng Giám đốc UNESCO đánh giá, Việt Nam là một ví dụ điển hình cho mối quan hệ mang tính xây dựng và hiệu quả của UNESCO với sự thay đổi ngoạn mục, từ một quốc gia được hưởng nhiều viện trợ quốc tế cách đây 20 năm, đã trở thành một quốc gia thành viên tích cực với những đóng góp quan trọng và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Ông Khúc Tinh, Phó Tổng Giám đốc UNESCO cho biết: "Kể từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước từ năm 1986, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nền kinh tế không chỉ tăng trưởng trên quy mô lớn mà chất lượng tăng trưởng được nâng cao. UNESCO đã đồng hành, hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi và khẳng định trong những năm tới mong muốn được hợp tác với Việt Nam - một nước thành viên điển hình. Đối mặt với những thách thức của Kỷ nguyên công nghiệp 4.0 mới, đặc biệt là những thách thức liên quan đến chuyển đổi kỹ thuật số, biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, sử dụng tài nguyên không bền vững và bất bình đẳng, chúng ta còn nhiều việc phải triển khai để đạt được các SDG trên quy mô toàn cầu và ở Việt Nam. UNESCO sẽ tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Việt Nam nhằm đạt được các ưu tiên quốc gia".

Bên cạnh những thành tựu nổi bật về văn hóa, Việt Nam cũng đạt được nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong việc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là trong lĩnh vực di cư và phòng, chống mua bán người. Sau gần 2 thập kỷ hợp tác (2007), mối quan hệ giữa Việt Nam và Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) đã không ngừng được củng cố và mở rộng. Hai bên đã phối hợp chặt chẽ trong nhiều lĩnh vực như hỗ trợ lao động di cư, phòng chống mua bán người, ngăn chặn di cư trái phép, cũng như thực hiện hồi hương và tái hòa nhập cộng đồng - đặc biệt là với các nạn nhân bị mua bán.

Việt Nam hiện là một trong số ít quốc gia tiên phong xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM). Đây là dấu mốc quan trọng thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với việc thúc đẩy quản lý di cư nhân đạo và bền vững. Cùng với đó, Việt Nam đã ban hành nhiều khung pháp lý mới có liên quan mật thiết đến hoạt động của IOM và các vấn đề di cư, tiêu biểu như Luật Biến đổi khí hậu, Luật Quốc phòng và đặc biệt là Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) chính thức có hiệu lực từ tháng 7 năm nay. Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) được xem là bước tiến vượt bậc trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, đảm bảo quyền lợi cho người di cư và các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội. 

Bà Mitsue Pembroke, Quyền Trưởng Phái đoàn IOM tại Việt Nam, nhận định: "Chúng tôi xin ghi nhận những tiến bộ vượt bậc của Việt Nam trong những năm gần đây trong công tác phòng chống mua bán người. Với sự phối hợp của Bộ công an và các cơ quan liên ngành, Luật Phòng chống mua bán người sửa đổi đã có hiệu lực thi hành. Một trong những điểm nổi bật của Luật Phòng chống mua bán người sửa đổi là nhấn mạnh vào việc lấy nạn nhân làm trung tâm trong quá trình xây dựng chính sách. Và Luật sửa đổi cũng tạo điều kiện tốt hơn cho công tác tái hòa nhập cho mọi đối tượng,  từ công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam, người không quốc tịch và trẻ vị thành niên. Ngoài ra, Luật này cũng tạo điều kiện để cho những công tác hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập với cả cộng đồng và có được những bước tiến tiệm cận hơn với những quy ước của quốc tế".

Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ

Trong hành trình phát triển đất nước, Việt Nam luôn coi con người là trung tâm, lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống làm ưu tiên hàng đầu. Trên chặng đường ấy, Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) đã là đối tác chiến lược của Việt Nam suốt hơn 45 năm, đặc biệt trong các lĩnh vực dân số, sức khỏe sinh sản và phát triển bền vững. UNFPA đã triển khai nhiều chương trình thiết thực mang lại tác động sâu rộng, nhất là đối với phụ nữ và các cộng đồng yếu thế. Tiêu biểu như các sáng kiến "Ngôi nhà Ánh Dương", hỗ trợ nạn nhân bạo lực giới, hay chương trình "Cô đỡ thôn bản", góp phần cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở vùng sâu, vùng xa.

Đặc biệt, UNFPA đã hỗ trợ Việt Nam thực hiện hai cuộc điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ - Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất trên thế giới thực hiện cuộc điều tra này hai lần, cho thấy cam kết mạnh mẽ trong xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng và thúc đẩy bình đẳng giới. Ngoài ra, UNFPA còn hỗ trợ Việt Nam thực hiện Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, cung cấp dữ liệu chiến lược phục vụ hoạch định chính sách. Trong đại dịch COVID-19, tổ chức này đã nhanh chóng hỗ trợ y tế khẩn cấp cho phụ nữ mang thai và các nhóm dễ bị tổn thương. Nhờ sự đồng hành của UNFPA, nhiều cộng đồng yếu thế đã tiếp cận kịp thời các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu. Hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục triển khai các chính sách y tế hướng đến người dân, như tăng cường nhân lực y tế tuyến cơ sở và thực hiện khám sức khỏe định kỳ miễn phí - một bước tiến quan trọng nhằm tiến tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân.

Ông Matt Jackson, trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam cho biết: "Các chính sách này thực sự là một bước tiến rất lớn của Việt Nam trong việc hướng tới mục tiêu phổ cập chăm sóc sức khỏe toàn dân. Tôi đánh giá cao nỗ lực này của Chính phủ Việt Nam. Và đặc biệt nỗ lực này sẽ giúp chúng ta tiếp cận được với những nhóm yếu thế, người nghèo, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật và người di cư. Trong thời gian qua, UNFPA đã hỗ trợ cho Cục Dân số và Cục Thống kê để tiến hành một loạt những điều tra, ví dụ như điều tra về dân số và nhà ở, điều tra về dân tộc thiểu số....Trong thời gian tới, chúng tôi sẵn sàng tiếp tục hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu về dân số. Chúng tôi cũng sẽ đặc biệt ưu tiên giúp Chính phủ Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển dân số thông qua quá trình hoàn thiện các luật, chính sách có liên quan và sẽ tiếp tục hỗ trợ về mặt kỹ thuật, đặc biệt là chia sẻ các kinh nghiệm quốc tế".

Trong lĩnh vực giáo dục và bảo vệ trẻ em - một trụ cột của phát triển bền vững, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) đã là đối tác tin cậy của Việt Nam ngay từ những năm đầu tái thiết đất nước. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, UNICEF không chỉ hỗ trợ Việt Nam về mặt kỹ thuật và nguồn lực mà còn đồng hành trong việc thúc đẩy các chính sách đổi mới mang tính chiến lược, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Trước làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam đã thể hiện tầm nhìn dài hạn khi xác định chuyển đổi số, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là những trụ cột ưu tiên của nền giáo dục tương lai. Không chỉ dừng lại ở định hướng, Việt Nam đang tiên phong tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) vào chương trình giáo dục phổ thông - một bước đi táo bạo, thể hiện quyết tâm theo kịp xu thế toàn cầu, đồng thời tạo nền tảng để thế hệ trẻ làm chủ công nghệ.

Bà Silvia Danailov, Trưởng Đại diện Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) tại Việt Nam cho biết, trong lĩnh vực giáo dục nói riêng, Việt Nam hiện có nhiều sáng kiến lãnh đạo tích cực, đặc biệt là trong việc xây dựng khung chính sách với việc tích hợp  trí tuệ nhân tạo (AI) vào giáo dục: "Tôi cho rằng Việt Nam đang là một trong những quốc gia tiên phong trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, bao gồm cả ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục. Việt Nam đang đi đúng hướng, không chỉ thể hiện qua việc ban hành các chính sách về ứng dụng AI trong giáo dục, mà còn qua những hành động cụ thể như đầu tư vào đào tạo giáo viên và phát triển các giải pháp sáng tạo để AI phục vụ tốt hơn cho các nhóm trẻ em yếu thế - bao gồm trẻ em khuyết tật, trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ em sống tại các vùng sâu vùng xa. Điều cốt lõi không nằm ở việc bao nhiêu trẻ em tiếp cận được với AI, mà ở chỗ AI có giúp nâng cao kết quả học tập cho các em hay không".

Gần 5 thập kỷ tham gia vào tổ chức Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ từ một quốc gia từng chịu nhiều tổn thất chiến tranh trở thành đối tác phát triển tích cực, chủ động và có trách nhiệm trên trường quốc tế. Những đánh giá tích cực từ các tổ chức của Liên Hợp Quốc như UNESCO, IOM, UNFPA và UNICEF không chỉ là sự ghi nhận cho những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, mà còn là minh chứng cho hiệu quả của mô hình hợp tác toàn diện, lấy con người làm trung tâm và phát triển bền vững làm định hướng.

Trong bối cảnh toàn cầu đang phải đối mặt với nhiều thách thức phức tạp và liên ngành, mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam và Liên Hợp Quốc sẽ tiếp tục là nền tảng vững chắc, tạo động lực cho Việt Nam tiến xa hơn trong hành trình phát triển bao trùm, sáng tạo và nhân văn - vì một tương lai chung thịnh vượng cho tất cả mọi người.

ba_kanni_-_giam_doc_undp_chau_a_tbd.jpg

UNDP: “Thế giới cần có thêm những tấm gương như Việt Nam”

VOV.VN - Theo Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), thế giới cần những tấm gương như Việt Nam để chứng minh rằng, một quốc gia có thể bước ra khỏi chiến tranh và thời kỳ hậu chiến, gác lại quá khứ, rút ra bài học và hướng đến hòa bình, ổn định - không chỉ cho chính mình, mà còn cho cả thế giới.

Từ khóa: Việt Nam, tổ chức, Liên Hợp Quốc, Việt Nam,phát triển, kinh tế

Thể loại: Nội chính

Tác giả: hồ điệp/vov1

Nguồn tin: VOVVN

Bình luận






Đăng nhập trước khi gửi bình luận Đăng nhập