VOV.VN - Trong bối cảnh quy định chống mất rừng và suy thoái rừng của EU (EUDR) đang đến gần, nông hộ sản xuất cà phê Việt Nam đã trở thành trung tâm của cuộc chuyển đổi lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hơn 650.000 hộ sản xuất nhỏ đang mang trên vai “sứ mệnh” duy trì vị thế cà phê Việt Nam tại thị trường châu Âu. Trong bối cảnh quy định chống mất rừng và suy thoái rừng của EU (EUDR) đang đến gần, nông hộ sản xuất cà phê đã trở thành trung tâm của cuộc chuyển đổi lớn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Họ đang dần phải thay đổi tư duy sản xuất, làm chủ công cụ số và bắt nhịp với các tiêu chuẩn quốc tế - yếu tố quyết định để cà phê Việt Nam vượt qua rào cản kỹ thuật, chinh phục thị trường cao cấp.
Ban hành tháng 6/2023, Quy định Chống phá rừng của Liên minh châu Âu (EUDR) yêu cầu tất cả hàng hóa nhập khẩu vào EU - trong đó có cà phê phải không liên quan đến phá rừng sau ngày 31/12/2020. Cùng với đó, sản phẩm phải được truy xuất đến tận tọa độ vườn trồng và tuân thủ pháp luật tại quốc gia sản xuất. Quy định này sẽ có hiệu lực vào tháng 1/2026 đối với các DN lớn và sau đó 6 tháng đối với các DNVVN.
Ngày càng nhiều nông dân ở Đắk Lắk tham gia vào các chuỗi liên kết sản xuất nông nghiệp có trách nhiệm
Với Việt Nam - nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới và chiếm khoảng 40% - 50% tổng lượng xuất khẩu vào thị trường châu Âu sẽ là thử thách không nhỏ. Đặc biệt, 95% sản lượng cà phê đến từ hơn 650.000 hộ nông dân nhỏ lẻ, sản xuất truyền thống, thiếu hồ sơ truy xuất và công cụ kỹ thuật số.
Ông Bạch Thanh Tuấn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam nhận định, EUDR sẽ là tấm vé vào thị trường châu Âu. Tuy nhiên, nông dân có thể mất cơ hội tiếp cận thị trường cao cấp này, nếu không nhanh chóng tham gia chuẩn hóa hệ thống dữ liệu vùng trồng. DN cũng không thể tự mình đáp ứng nếu không có sự đồng hành từ người sản xuất.
“Ngành hàng cà phê cần ưu tiên xây dựng một cơ sở dữ liệu thông tin minh bạch, tuỳ theo cấp độ, tuỳ theo yêu cầu truy xuất. Khi cà phê minh bạch thông tin từ cấp độ người sản xuất đến người kinh doanh thương mại, đến cấp độ các địa phương, không những giải quyết được các thách thức, còn tạo ứng xử trên một nền tảng thống nhất từ cấp độ sản xuất đến cấp độ chính phủ”, ông Tuấn đề cập.
Trước yêu cầu cấp bách về chuẩn hóa dữ liệu vùng trồng, Việt Nam đã có bước đi chủ động. Tháng 12/2024, Bộ NN&PTNT (nay là Bộ NN&MT), phối hợp cùng Tổ chức IDH và các DN lớn như JDE Peet’s, đã ra mắt Hệ thống cơ sở dữ liệu vùng trồng cà phê và rừng tại Đắk Lắk và Lâm Đồng. Lần đầu tiên, Việt Nam có một hệ thống kỹ thuật số truy xuất nguyên liệu cà phê đến tận hộ nông dân, với đầy đủ thông tin về tọa độ, pháp lý đất đai và lịch sử canh tác.
Khi được hỗ trợ đúng và đủ, nông dân không chỉ là người thực thi các tiêu chuẩn từ EUDR mà còn là người kiến tạo giá trị cho cà phê Việt Nam
Giai đoạn thí điểm cho thấy hiệu quả rõ rệt tại các địa phương Krông Năng, Ea H’leo và Cư M’gar (Đắk Lắk), Di Linh (Lâm Đồng). Đến nay, Đắk Lắk đã có hơn 25.000 nông dân tại 8 xã, phường tham gia và tuân thủ sản xuất cà phê đáp ứng quy định EUDR. Tổng diện tích đã có đủ thông tin và được chứng nhận khoảng 27.000ha, sản lượng gần 90.000 tấn.
“Người dân nhận được hỗ trợ về đo tọa độ, ghi nhật ký canh tác, tập huấn kỹ năng sử dụng điện thoại thông minh và phần mềm truy xuất. Lúc đầu ai cũng lo ngại, nhưng sau khi hiểu bà con thấy đây là việc cần làm nếu muốn giữ được đầu ra ổn định”, bà Nguyễn Thị Tâm, nông dân tham gia dự án truy xuất nguồn gốc tại tỉnh Đắk Lắk chia sẻ.
Dẫu vậy, việc nhân rộng mô hình chuẩn hóa dữ liệu vùng trồng, đáp ứng yêu cầu EUDR ra toàn quốc vẫn đầy thách thức. Đa số nông dân chưa quen ghi chép điện tử, chưa thấy hết giá trị thiết thực của việc minh bạch hóa dữ liệu. Nhiều hợp tác xã vẫn vận hành theo phương thức truyền thống, thiếu năng lực điều phối và kỹ thuật.
“Trước nay bà con không có thói quen ghi chép nên làm theo thói quen truyền thống. Nếu để làm được việc này, rất mong chính quyền địa phương hỗ trợ bà con về làm thủ tục giấy tờ, các chứng nhận để cà phê đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Các DN đứng ra thu mua sản phẩm của bà con nên có định vị rõ ràng hỗ trợ các hộ nông dân từ đầu, nếu để bà con tự làm sẽ rất khó”, bà Cầm Thị Mòn, Giám đốc HTX Cà phê Ara – Tay coffee, tỉnh Sơn La bày tỏ.
Đại diện nông dân các tỉnh Tây Nguyên thăm mô hình cảnh quan cà phê trong vùng Dự án cà phê bền vững của tổ chức IDH
Ông Đỗ Ngọc Sỹ, Giám đốc bền vững khu vực châu Á – Thái Bình Dương của JDE Peet’s nhận định, EUDR không phải là rào cản cuối cùng, chỉ là bước khởi đầu trong chuỗi yêu cầu ngày càng chặt chẽ từ thị trường quốc tế. Trong cuộc đua mới này, người thắng sẽ là những người chuẩn bị sớm nhất, thực hiện nhanh nhất. Nhưng sớm đến đâu, nhanh thế nào vẫn chủ yếu do nông dân ở các nông hộ.
“Ngoài tiêu chuẩn EUDR, thị trường châu Âu ngày càng đòi hỏi nhiều vấn đề khác về mặt sinh kế, không sử dụng lao động trẻ em, an ninh nguồn nước và vấn đề về rừng. Chắc chắn việc này không thể do 1 tổ chức hay 1 DN nào làm được, sự chung tay, hợp tác của người là quyết định rất lớn”, ông Sỹ nêu.
Trong làn sóng tiêu chuẩn hóa toàn cầu, nông hộ sản xuất nhỏ không còn là điểm yếu của ngành cà phê Việt Nam, mà chính là “mắt xích bản lề” để tiến tới một ngành hàng minh bạch, bền vững và có trách nhiệm. Khi được hỗ trợ đúng và đủ, nông dân không chỉ là người thực thi mà còn là người kiến tạo giá trị. Trước ngưỡng cửa EUDR, chính người nông dân cùng vùng nguyên liệu của mình sẽ quyết định hướng đi của cà phê Việt Nam trong tương lai.
VOV.VN - Sau 9 tháng nỗ lực, công ty Simexco đã được trao 2 chứng nhận của Tổ chức 4C, đối với 2 vùng trồng đáp ứng quy định chống mất rừng EUDR với tổng diện tích 9.500 ha, sản lượng trên 35.000 tấn/năm.
Từ khóa: cà phê việt nam, cà phê việt nam, quy định chống mất rừng và suy thoái rừng của EU,quy định eudr, nông hộ sản xuất cà phê, trung tâm chuyển đổi, vai trò của nông hộ, chuỗi cung ứng toàn cầu