
Cơ sở cho sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Cập nhật: 1 giờ trước
VOV.VN - Vấn đề dân tộc (ở đây là vấn đề quốc gia dân tộc) là một vấn đề rộng lớn và là một nội dung có ý nghĩa chiến lược của chủ nghĩa Mác - Lênin và của cách mạng xã hội chủ nghĩa; là vấn đề thực tiễn nóng bỏng đòi hỏi phải được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng.
Việt Nam là một quốc gia dân tộc được hình thành và phát triển sớm trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Từ rất sớm, ý thức về độc lập, chủ quyền, thống nhất quốc gia dân tộc đã trở thành một động lực to lớn để chiến đấu và chiến thắng ngoại bang xâm lược, bảo vệ và xây dựng đất nước. Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, tuy triều đình phong kiến bạc nhược đã đầu hàng, nhưng tinh thần độc lập, tự chủ, lòng tự tôn dân tộc thì luôn luôn được giữ vững và ngày càng được củng cố.
Sau khi thực dân Pháp áp đặt được ách thống trị ở Việt Nam, Lào, Campuchia, chúng đã thiết lập ở đây một bộ máy cai trị mới, lập ra cái gọi là Liên bang Đông Dương để dễ bề cai trị, áp bức, bóc lột nhân dân ba nước Đông Dương. Trước tình hình đó, để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược, nhân dân ba nước Đông Dương đã kề vai, sát cánh, đoàn kết bên nhau chống kẻ thù chung. Tuy nhiên, ba nước vẫn là ba quốc gia dân tộc, có đặc điểm sâu xa về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và lịch sử mà không một sức mạnh nào có thể xóa bỏ được.
Khi Nguyễn Ái Quốc triệu tập các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người chủ trương sau khi đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và bọn phản động, giành lại độc lập tự do cho toàn thể dân tộc sẽ thành lập một nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Tuy nhiên, phải hơn 10 năm sau, vào đầu năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, thực hiện ham muốn tột bậc của mình là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Không lâu sau khi trở về nước, tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng để đề ra đường lối, chủ trương mới cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Tại Hội nghị lần này, Ban Chấp hành Trung ương đã xác định một cách dứt khoát vị trí, vai trò của vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tất cả các nhiệm vụ khác đều phải phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Từ chủ trương nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho toàn thể đồng bào, Hội nghị Trung ương tháng 5/1941 đã quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Các dân tộc Đông Dương sẽ tự quyết định vận mệnh và tương lai của đất nước mình. Hội nghị nêu rõ: “Nói đến vấn đề dân tộc tức là đã nói đến sự tự do độc lập của mỗi dân tộc tùy theo ý muốn của mỗi dân tộc. Nói như thế nghĩa là sau lúc đánh đuổi Pháp - Nhật, ta phải thi hành chính sách “dân tộc tự quyết” cho dân tộc Đông Dương. Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành Liên bang Cộng hòa Dân chủ Đông Dương hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý… Văn hóa của mỗi dân tộc sẽ được tự do phát triển tồn tại, tiếng mẹ đẻ của các dân tộc sẽ được tự do phát triển, tồn tại và được bảo đảm. Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”.
Trên cơ sở đó, Hội nghị nhấn mạnh: “Riêng dân tộc Việt Nam, một dân tộc đông và mạnh hơn hết ở Đông Dương, sau lúc đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ”.
Chủ trương trên không có nghĩa là tách rời cách mạng Việt Nam với cách mạng Lào và Campuchia mà cách mạng cả ba nước vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Muốn đánh được kẻ thù chung “không chỉ có dân tộc này hay dân tộc kia mà đủ, mà phải có một lực lượng thống nhất của tất thảy các dân tộc Đông Dương họp lại”. Hội nghị cũng chỉ rõ trách nhiệm của dân tộc Việt Nam đối với dân tộc Miên, Lào là “phải dìu dắt giúp đỡ trong bước đường tranh đấu tự do độc lập” và phải có sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của phong trào cách mạng trên thế giới.
Quán triệt tư tưởng đó, Hội nghị lần này đã quyết định xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất cho mỗi dân tộc Việt Nam, Lào, Cao Miên nhằm tạo ra sự chủ động, thức tỉnh được tinh thần dân tộc trong nhân dân. Hội nghị cho rằng “mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện nay không thể gọi như trước là Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, mà phải đổi ra cái tên khác cho có tính chất dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn và nhất là có thể thực hiện được trong tình thế hiện tại”. Từ sự phân tích và nhận định đó, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh), đồng thời chủ trương hết sức giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh và Ai Lao độc lập đồng minh.
Sau khi ra đời, ngày 25/10/1941, Mặt trận Việt Minh đã công bố Chương trình hành động và nêu rõ mục tiêu của mình là: “1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho nước Việt Nam được sung sướng, tự do”. Chương trình Việt Minh còn “chủ trương liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở". Chương trình nhấn mạnh: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”.
Sự thành lập Mặt trận Việt Minh đánh dấu một bước tiến mới của Đảng trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Đó cũng là sự khẳng định trong thực tế những tư tưởng đúng đắn và sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề này, một vấn đề mà có lúc đã diễn ra những tranh luận gay gắt trong nội bộ những người cộng sản Việt Nam trong những năm 30 của thế kỷ XX.
Có thể nói, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) có ý nghĩa to lớn, mang tính bước ngoặt đối với cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng Đông Dương nói chung. Những quyết sách đúng đắn và sáng tạo ở Hội nghị lần này là nguồn sáng dẫn đường cho nhân dân ba nước Đông Dương phát huy mạnh mẽ tinh thần độc lập, tự chủ của mỗi dân tộc, đồng thời tăng cường tình đoàn kết và mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân ba nước Đông Dương trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành thắng lợi vĩ đại trong Cuộc cách mạng Tháng Tám lịch sử năm 1945 ở Việt Nam và cuộc đấu tranh của nhân dân Lào và Campuchia. Đặc biệt, Hội nghị lần này đã tạo cơ sở, tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nhà nước Lào độc lập.
Sau Hội nghị Trung ương 8, Đảng Cộng sản Đông Dương tiếp tục ra nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm cụ thể hóa chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc ở ba nước Đông Dương. Chủ trương này được thể hiện qua một loạt văn kiện của Đảng, như: Chỉ thị về công tác; Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng; Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương; Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta; Nghị quyết của toàn quốc hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương…
Các văn kiện này đều chủ trương đoàn kết các dân tộc Đông Dương nhằm đánh đổ ách xâm lược của thực dân, phát xít Pháp - Nhật, giải phóng các dân tộc Đông Dương; ủng hộ Miên, Lào được độc lập và thống nhất. Đối với dân tộc Việt Nam, Đảng chủ trương đề ra các bước đi cụ thể cho việc ra đời của một nhà nước Việt Nam độc lập, thống nhất. Cụ thể, Đảng chủ trương “thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở các nhà máy, mỏ, làng, ấp, đường phố, trại lính” và đặc biệt là chủ trương “thành lập “Ủy ban nhân dân cách mạng Việt Nam” theo hình thức một Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam”; triệu tập quốc dân lập pháp để quy định chính thể và hình pháp quốc gia; ban bố các quyền tự do dân chủ; toàn xá và trọng dụng chính trị phạm; đặt quốc ca và định dấu hiệu cho quốc gia Việt Nam…
Giữa lúc cao trào kháng Nhật phát triển mạnh mẽ, chiến tranh du kích và khởi nghĩa từng phần diễn ra ở nhiều địa phương. Hàng loạt châu, xã, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang,... được giải phóng, chính quyền địch bị đánh đổ và tan vỡ từng mảng, đưa đến sự ra đời của chính quyền cách mạng dưới hai hình thức: Ủy ban dân tộc giải phóng (gọi tắt là Ủy ban giải phóng) và Ủy ban nhân dân cách mạng ở các làng hoặc Ủy ban công nhân cách mạng ở các xí nghiệp (gọi tắt là Ủy ban nhân dân). Ủy ban giải phóng thực chất là một hình thức tiền chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giành chính quyền. Ủy ban dân tộc giải phóng là hình thức quá độ, nó bắt tay ngay vào việc thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, động viên nhân dân tiến lên giành chính quyền. Khi khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, nó sẽ hết nhiệm vụ để nhường chỗ cho các ủy ban nhân dân cách mạng. Song trong các vùng giải phóng sẽ thành lập ngay các ủy ban nhân dân mà không nhất thiết phải qua hình thức ủy ban giải phóng.
Đỉnh cao của chính quyền cách mạng trong thời kỳ này là sự ra đời của Khu giải phóng và Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng. Khu giải phóng bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận. Ủy ban lâm thời Khu giải phóng đã lãnh đạo nhân dân toàn khu trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Sự ra đời của chính quyền cách mạng Khu giải phóng là sự chuẩn bị, tập dượt tiến tới việc thiết lập chính quyền cách mạng trong cả nước. Khi thời cơ cách mạng đã chín muồi, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào từ ngày 13-15/8/1945, quyết định phát động khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng minh kéo vào để giải giáp quân Nhật. Trong bối cảnh đó, ngày 16/8/1945, Hồ Chí Minh đã quyết định khai mạc Đại hội Quốc dân để bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng toàn quốc - tiền thân của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Với quyết tâm giải phóng dân tộc, Đại hội Quốc dân đã tán thành chủ trương phát động khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên giành chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Ngay sau đó, Hồ Chí Minh - Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng đã ra Hiệu triệu, kêu gọi toàn quốc đồng bào đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc dân Đại hội và Hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước triệu người như một đã nhất tề nổi dậy đứng lên khởi nghĩa làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử năm 1945.
Ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên trên thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa đến một bước nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên đất nước độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự kết hợp, tổng hòa của nhiều nhân tố, trong đó có chủ trương giải quyết đúng đắn vấn đề quốc gia dân tộc trong quan hệ giữa ba nước Đông Dương, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Nó đã tạo ra sự chủ động, thức tỉnh lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong nhân dân mỗi nước Đông Dương; đập tan luận điệu xuyên tạc, chia rẽ của kẻ thù; tăng cường tình đoàn kết, sự gắn bó mật thiết giữa cách mạng ba nước Đông Dương. Chủ trương đó đã đặt cơ sở, tiền đề cho sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Nhà nước Lào độc lập vào năm 1945.
Từ khóa: dân tộc , quốc gia dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng xã hội chủ nghĩa
Thể loại: Nội chính
Tác giả: ctv nguyễn văn chung
Nguồn tin: VOVVN