
Không thể chậm trễ trong “cuộc chơi” ứng dụng trí tuệ nhân tạo ở khu vực công
Cập nhật: 6 giờ trước
Cứu sống sản phụ băng huyết sau sinh, truyền 30 đơn vị máu
12 cơ quan, 35 hộ dân sẽ dời đi đâu để mở rộng không gian Hồ Gươm?
VOV.VN - Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khu vực công một cách thông minh, có trách nhiệm sẽ giúp tận dụng được tiềm năng của trí tuệ nhân tạo, tạo ra một khu vực công hiệu quả, công bằng, minh bạch.
Theo báo cáo được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam và Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) thực hiện, trong thời gian gần đây, một số cơ quan nhà nước trung ương và địa phương tại Việt Nam đã bước đầu ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào hoạt động quản lý hành chính và cung cấp dịch vụ công.
Một số ví dụ điển hình bao gồm trợ lý ảo trong quản lý hành chính công, phần mềm nhận dạng khuôn mặt trong an ninh trật tự, hay hệ thống giám sát giao thông thông minh. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành tòa án ở Việt Nam, vào giữa năm 2024, đã có 173.206 văn bản pháp luật, 27.610 câu hỏi giải đáp tình huống pháp lý và 1,4 triệu bản án được tích hợp vào trợ lý ảo cho thẩm phán...
Tuy nhiên, việc ứng dụng này vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống cần được điều chỉnh để đảm bảo sự phát triển trí tuệ nhân tạo bền vững và hiệu quả trong khu vực công.
Chia sẻ tại Tọa đàm “Toàn cảnh trí tuệ nhân tạo trong khu vực công tại Việt Nam” diễn ra chiều 18/3, Phó Trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam, ông Patrick Haverman cho rằng, trí tuệ nhân tạo đang tạo nên những thay đổi trong cách chúng ta sống, làm việc và quản trị. Trí tuệ nhân tạo cung cấp những cơ hội lớn nếu chúng ta ứng dụng một cách có trách nhiệm.
“Đánh giá toàn cảnh về trí tuệ nhân tạo trong bối cảnh Việt Nam đang ở thời điểm then chốt. Với chiến lược đúng đắn, đầu tư hợp lý và bảo đảm về đạo đức, trí tuệ nhân tạo có thể trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển quốc gia và tiến bộ con người”, ông Patrick Haverman nhận định.
Các chuyên gia cho rằng, trên thế giới, trí tuệ nhân tạo được nhìn nhận như động lực cốt lõi mới, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng trưởng và phát triển bền vững. Tại Việt Nam, khu vực công đóng vai trò quan trọng trong việc định hình và dẫn dắt sự phát triển của trí tuệ nhân tạo thông qua tích hợp trí tuệ nhân tạo vào quản trị và vận hành, cung cấp dịch vụ công cho người dân và thúc đẩy hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo trong nước.
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển truyền thông (IPS), ông Nguyễn Quang Đồng khẳng định: Việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khu vực công ở Việt Nam có tiềm năng to lớn, đặc biệt ở các khía cạnh về hỗ trợ năng lực ra quyết định chính sách, nâng cao hiệu suất công việc và cải tiến cung ứng dịch vụ công.
“Vì vậy, mỗi cơ quan cần khai mở tiềm năng này bằng việc xác định rõ “bài toán” riêng của mình nhằm lựa chọn công nghệ trí tuệ nhân tạo phù hợp, đồng thời đánh giá mức độ sẵn sàng của nội bộ tổ chức để xây dựng lộ trình triển khai một cách có hiệu quả”, ông Nguyễn Quang Đồng nhấn mạnh.
Nghiên cứu cũng chỉ ra, Việt Nam cần ứng dụng trí tuệ nhân tạo một cách có chọn lọc, thiết thực và phù hợp với điều kiện thực tế cũng như nhu cầu cụ thể trong khu vực công, tránh chạy theo trào lưu công nghệ, để bảo đảm hiệu quả thực sự và lợi ích công cộng.
Theo ước tính tại Việt Nam, lĩnh vực trí tuệ nhân tạo tạo sinh dự kiến sẽ đóng góp cho nền kinh tế số tới 14.000 tỉ đồng vào năm 2030.
Ông Trần Anh Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, trí tuệ nhân tạo không chỉ là công cụ hữu ích mà còn là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự cạnh tranh và tồn tại của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để khai thác tiềm năng của trí tuệ nhân tạo, cần đối mặt với nhiều thách thức, nhất là vấn đề nguồn nhân lực và việc phát triển trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm.
Đồng quan điểm Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Hoài, Viện trưởng Viện Trí tuệ nhân tạo (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, hiện nay, nhân lực làm việc được trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo còn rất thiếu.
Mỗi năm, nguồn nhân lực này chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu tuyển dụng, trong khi chỉ có khoảng 30% trong số 55.000 sinh viên công nghệ thông tin ra trường hàng năm có thể làm việc liên quan tới trí tuệ nhân tạo.
“Bên cạnh việc thiếu hụt nhân lực ngành trí tuệ nhân tạo, Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức khác như thiếu cơ hội tiếp cận với các chuyên gia và cố vấn hàng đầu về trí tuệ nhân tạo để đánh giá và thẩm định sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường; thiếu cơ hội tiếp cận các cơ sở hạ tầng, nền tảng và công cụ sẵn sàng cho doanh nghiệp...”, PGS-TS Nguyễn Xuân Hoài thông tin.
Thêm vào đó phải đầu tư kinh phí khổng lồ để xây dựng cơ sở dữ liệu lớn; chuyển đổi quy trình truyền thống sang quy trình dựa trên các nền tảng công nghệ số hiện đại. Trong khi đó, ở Việt Nam, các cơ sở dữ liệu luật và những cơ sở dữ liệu khác về dân cư, đất đai, y tế, giáo dục, hộ tịch còn rời rạc, chưa được kết nối, chia sẻ chặt chẽ...
“Dù sao chăng nữa, với những lợi ích mang lại, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khu vực công là điều hiển nhiên. Chúng ta không thể chậm trễ trong cuộc chơi này”, PGS-TS Nguyễn Xuân Hoài bày tỏ.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đưa ra đề nghị, nâng cao năng lực quản trị thông minh tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhà máy; đồng thời mọi công dân đều có trợ lý ảo để được sử dụng thành quả của trí tuệ nhân tạo và bảo vệ an ninh, an toàn cho người dân, hạn chế mặt trái của trí tuệ nhân tạo, tinh thần là “phát triển trí tuệ nhân tạo và phải thắng trí tuệ nhân tạo”. Trong đó, phong trào “Bình dân học vụ số” được cho là chìa khóa vàng để thực hiện nhiệm vụ này.
Nghị quyết 57-NQ/TW nêu quan điểm chỉ đạo: “Phát triển nhanh và bền vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược; ưu tiên nguồn lực quốc gia đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam gắn với nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu cơ bản, tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế”.
Xây dựng kế hoạch, tạo phong trào Bình dân học vụ số một cách rộng khắp, hiệu quả, thực chất chính là tạo nền tảng để tạo ra quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số" với sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo. Ở đó, mỗi người tự xác định học tập suốt đời để không bị trí tuệ nhân tạo thay thế mà ngược lại, biết ứng dụng, phát triển và chiến thắng trí tuệ nhân tạo.
Từ khóa: trí tuệ nhân tạo, trí tuệ nhân tạo, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khu vực công, nghị quyết 57, bình dân học vụ số
Thể loại: Xã hội
Tác giả: vân anh/vov.vn
Nguồn tin: VOVVN