Dùng radio để phát hiện tàu địch, chuyện giờ mới kể

Cập nhật: 4 giờ trước

VOV.VN - Vốn là một giảng viên của trường Đại học Hàng hải, nhưng khi đất nước bước vào giai đoạn Kháng chiến chống Mỹ, chàng thanh niên Lê Xuân Khảm cùng nhiều đồng nghiệp của mình đã trích máu tay ký vào đơn nhập ngũ.

Sau 2 chuyến tàu đi trinh sát quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, ông đã được điều động sang tàu mang số hiệu C69, thuộc Đoàn tàu Không số, thực hiện vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam vào đầu năm 1966.

Con tàu đã bị tàu địch đeo bám và lạc đường, nhưng nhờ sự mưu trí, dũng cảm của các chiến sĩ hải quân và sự đùm bọc của nhân dân, đoàn tàu vẫn bảo toàn được toàn bộ vũ khí. Phóng viên VOV Giao thông đã có cuộc trao đổi với Cựu chiến binh Lê Xuân Khảm, người duy nhất sống sót trên con tàu C69.

PV: Thưa bác, trong các chuyến vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam, chuyến đi nào để lại ấn tượng sâu sắc nhất đối với bác? 

Cựu chiến binh Lê Xuân Khảm: Chúng tôi đi ngày 15/4/1966, một tàu Trung Quốc rất lớn dẫn chúng tôi đi theo tuyến đường của tàu cá Đài Loan, đi từ Đài Loan đi về phía Nam.

Thế nhưng khi tàu đến gần ngang Đà Nẵng thì bị khu trục hạm Mỹ bám theo quyết liệt. Đêm nào tàu cũng báo động. Ban ngày thì tàu hải quân Mỹ  lùi ra xa.

Chúng tôi chỉ biết được địch đang bám mình là nhờ radio, vì trên tàu không có máy móc gì ngoài radio nghe đài ngoài Hà Nội. Đặc điểm là, khi radar của tàu địch quét đúng vào radio của mình, thì nghe “xào” một tiếng. Khi đó chúng tôi quay radio bắt đúng vào hướng radar của địch, nhằm phát hiện vị trí tàu địch. Các tàu buôn cũng có radar nhưng tàu di chuyển, góc độ thay đổi, còn riêng tàu Mỹ bám mình, radar vẫn giữ ở góc độ đó. Chính vì thế nên biết tàu Mỹ đang bám mình.

Ban đêm tàu muốn vào bờ nhưng địch vẫn đeo bám mình. Đêm nào cũng báo động, đêm nào chi bộ cũng họp 2-3 lần căng thẳng, nhưng rồi cuối cùng, thuyền trưởng ra quyết tâm bằng giá nào cũng vào bờ, cho nên hạn chế báo cáo tình hình địch về nhà.

Để lừa địch, chúng tôi đặt hướng tàu sẽ đi hướng sang vịnh Thái Lan nhưng cố gắng bám tương đối gần mũi Cà Mau để khi có thời cơ, sẽ vào bờ. Tối 23/4/1966, khi tàu chúng tôi đi qua mũi Cà Mau phát hiện nhiều thuyền đánh cá ra khơi. Đây là thời cơ hiếm có, tàu quyết định tăng tốc độ và chuyển hướng vào khu vực ngư trường đánh cá của dân. Địch cũng phát hiện chúng tôi chạy vào ngư trường nhưn lạc mục tiêu vì tàu chúng tôi không thắp đèn, còn xung quanh, tàu của người dân thắp đèn sáng rực. Địch theo dõi chúng tôi bằng radar, khi nhìn trên radar, tàu chúng tôi hay tàu đánh cá chỉ là những chấm sáng, cho nên địch không phát hiện được.

Chúng tôi cũng không thể bám ngư trường của dân mãi được mà cần phải vào bờ. Khi chúng tôi tách ngư trường ra để vào bờ, địch đã phát hiện và bám theo, nhưng khi ấy chúng tôi đã vào rất gần bờ rồi.

Các chuyến tàu khi đi vào mũi Cà Mau luôn luôn phải đi theo hướng hải đăng ở Côn Đảo, sau đó đi theo đèn hải đăng ở đảo Hòn Khoai, mũi Cà Mau. Khi tàu của chúng tôi đến khu vực đấy, địch tắt cả 2 ngọn hải đăng, khiến chúng tôi bị mất hướng trong khi trên tàu không có máy móc gì cả, chỉ có mỗi một cái ống nhòm và một thước đo góc để xác định vị trí tàu cho nên chúng tôi bị lạc,  không vào đúng vùng Vàm Lũng, Cà Mau.

PV: Vâng, vậy lúc đó, với con tàu chở hàng chục tấn vũ khí, các bác đã làm thế nào để tránh sự truy quét của địch?

Cựu chiến binh Lê Xuân Khảm: Chúng tôi đi tìm suốt dọc bờ biển nhưng không phát hiện được cửa vào, cũng không phát hiện được lực lượng trong bờ cử người ra đón. Mãi đến gần sáng, chúng tôi phát hiện có một tốp người dân đánh cá ở gần bờ biển. Khi chúng tôi đến gần, người ta nổ máy chạy vào bờ, chúng tôi xác định chắc chắn phải có cửa biển nên chúng tôi bám theo.  Khi vào gần bờ thì bị du kích bắn chúng tôi tơi bời.

Khi thấy súng bắn lóe lửa, tôi lập tức báo cáo với thuyền trưởng, khẳng định đó là súng "bá đỏ" – loại súng K44 của du kích miền Nam, khi bắn thường phát ra chùm lửa ở đầu nòng. Tôi chắc chắn những người nổ súng là du kích nên chúng tôi vẫn tiếp tục áp sát bờ và lớn tiếng gọi. Có lẽ họ nghi ngờ chúng tôi là tàu miền Bắc nên đã ngừng bắn. Khi tàu đến gần, hai bên bắt đầu nói chuyện.

Chúng tôi giải thích rằng mình đi làm ăn, bị lạc đường và bị tàu Mỹ truy đuổi nên mong được giúp đỡ vào bờ để lẩn trốn. Tuy nhiên, phía bên kia vẫn cảnh giác, yêu cầu chúng tôi cử hai người bơi vào làm con tin, đổi lại họ sẽ cho một người bơi ra dẫn đường.

Chúng tôi cử hai đồng chí bơi vào bờ. Một người ở lại làm con tin, người còn lại đưa một thanh niên ra tàu. Chính thanh niên ấy đã dũng cảm dẫn tàu chúng tôi vào cửa sông khi trời bắt đầu hửng sáng và nước rút mạnh. Nhờ anh, chúng tôi mới vào được an toàn. Đến tận bây giờ, tôi vẫn day dứt vì không biết tên anh là gì – chỉ nhớ lúc đó anh còn rất trẻ và đã cứu cả chuyến tàu.

Khi tàu cập bến, người dân địa phương lập tức báo cho lãnh đạo ấp Vinh Hoa, xã Nguyễn Quân, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Tàu được đưa vào lạch trước nhà ông Bảy Điền. Ban đầu, người dân rất hoảng sợ khi thấy con tàu lớn, rực sáng cập sông. Nhưng khi biết đó là tàu miền Bắc, cả làng kéo ra – từ cụ già đến trẻ nhỏ.

Các cụ già đôn đốc thanh niên cùng chúng tôi vào rừng chặt cây để ngụy trang cho tàu. Việc này không đơn giản vì tàu dài 30m, rộng 5m, cao 7m, cabin cao và sơn trắng – vốn được cải trang thành tàu nghiên cứu nghề cá. Nhưng nhờ người dân miền biển và rừng phối hợp, chỉ sau gần 2 giờ, tàu đã được ngụy trang xong. Họ thậm chí chặt cả cây lớn để dựng lên, che kín miệng rạch nơi tàu neo đậu.

May mắn thay, khi máy bay trinh sát địch bay dọc bờ biển, nhờ lớp ngụy trang vừa hoàn thành nên không phát hiện ra tàu. Từ đó, người dân kéo đến ngày càng đông, chen kín cả khúc sông để chiêm ngưỡng "con tàu miền Bắc" – to lớn, đẹp đẽ, lần đầu tiên họ được thấy.

Chúng tôi sau đó liên lạc với chính quyền địa phương để tìm cách kết nối với bến Vàm Lũng.

PV: Vâng, xin cảm ơn những chia sẻ rất xúc động của bác!

 

Từ khóa: radio, tàu không số, tàu địch, Đại học Hàng hải, kháng chiến, chống Mỹ

Thể loại: Nội chính

Tác giả: hải hà/vov-giao thông

Nguồn tin: VOVVN

Bình luận






Đăng nhập trước khi gửi bình luận Đăng nhập