Thảm họa Hiroshima - Nagasaki và trở ngại trong ngăn chặn chiến tranh hạt nhân

Cập nhật: 2 giờ trước

VOV.VN - Đúng 80 năm trước, vào ngày 6/8 và 9/8/1945, quân đội Mỹ lần lượt thả bom nguyên tử (gọi tắt là bom A trong nhóm bom hạt nhân) xuống các thành phố Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản), từ đó đẩy nhân loại vào một kỷ nguyên mới đáng sợ.

Khi đó, hàng chục nghìn người tử vong tức thời tại Hiroshima và Nagasaki do nổ bom hạt nhân. Lửa cháy và tàn dư phóng xạ kéo dài đã gây ra bao thảm kịch tại 2 thành phố này. Đến tận ngày nay, không ai biết chắc chắn có bao nhiêu người chết do 2 quả bom nguyên tử đó. Theo các ước tính, số người tử vong do bom hạt nhân lên tới 140.000 ở Hiroshima và trên 70.000 ở Nagasaki nhưng người ta có thể không bao giờ nắm đầy đủ tổn thất thực sự của con người.

Cú sốc đạo đức từ loạt tập kích hạt nhân của Mỹ vang động khắp thế giới, vượt xa biên giới của Nhật Bản, khắc sâu vào lương tri của công chúng và giới lãnh đạo toàn cầu. Và từ đó đã hình thành những phong trào hướng tới ngăn chặn tái diễn thảm kịch đó.

Cuộc đua bên bờ vực thẳm

Ký ức về Hiroshima và Nagasaki phủ bóng đen dài lên các nỗ lực toàn cầu nhằm kiềm chế cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân. Dù có thể chưa hoàn hảo, Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968 (viết tắt bằng tiếng Anh là NPT) là một công cụ mạnh mẽ để ngăn ngừa những thảm họa hạt nhân tương tự trong tương lai. Sự ra đời của NPT phản ánh không chỉ đạo đức mà còn nỗi lo sợ thực tế và lợi ích của chính các quốc gia trên Trái Đất này.

Năm tháng qua đi, đã có thay đổi trong chính những quan điểm cho rằng 2 vụ ném bom nguyên tử năm 1945 là điều có thể biện minh được. Những lời thuật trực tiếp và đầy đau lòng từ các Hibakusha (thuật ngữ tiếng Nhật dùng để chỉ những người sống sót trong 2 vụ ném bom nói trên) đã đến được công chúng rộng lớn hơn. Một người trong số họ, tên là Setsuko Thurlow, kể lại: “Cứ như thể đó là buổi rước của những hồn ma. Tôi dùng chữ “hồn ma” là vì họ đơn giản trông không giống con người. Tóc họ dựng ngược, cơ thể phủ đầy máu và đất cát. Họ bị bỏng, cháy đen và sưng tấy. Da thịt họ treo lơ lửng, một số bộ phận cơ thể biến mất. Một số đang cầm cầu mắt của chính mình”.

Mối nguy hiểm từ vũ khí hạt nhân tiếp tục gia tăng hơn nữa với sự ra đời của bom khinh khí (còn gọi là bom nhiệt hạch, viết tắt là bom H) có sức công phá lớn hơn rất nhiều lần so với bom nguyên tử (bom A) đã thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Hành động của quân đội Mỹ năm 1945 tưởng chừng là dấu chấm cho Thế chiến II thì ngày nay lại được xem là sự khởi đầu cho một kỷ nguyên mà trong đó không một thành phố hoặc nền văn minh nào sẽ thực sự an toàn.

Những quan niệm đang thay đổi này đã hình thành nên cách nhìn nhận của các quốc gia đối với kỷ nguyên hạt nhân. Trong những thập kỷ sau Thế chiến II, công nghệ hạt nhân lan truyền nhanh chóng. Vào đầu thập niên 1960, Mỹ và Liên Xô đã chĩa hàng ngàn đầu đạn hạt nhân vào nhau.

Trong khi đó, người ta quan ngại những nước khác ở Đông Á, châu Âu và Trung Đông sẽ có được loại bom hủy diệt này. Cố Tổng thống Mỹ John Kennedy từng cảnh báo rằng “15, 20 hoặc 25 quốc gia” có thể có năng lực phát triển vũ khí hạt nhân trong thập niên 1970, dẫn tới “mối nguy hiểm khả thi lớn nhất” đe dọa sự tồn vong của nhân loại. Lời cảnh báo này, cũng như những diễn ngôn trước đó về chống phổ biến vũ khí hạt nhân, đã vạch ra tính cấp bách của vấn đề dựa trên di sản Hiroshima và Nagasaki.

Tình huống nguy hiểm thấy rõ nhất về nguy cơ chiến tranh hạt nhân đã xuất hiện trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba vào tháng 10/1962. Trong 13 ngày của cuộc khủng hoảng đó, thế giới cận kề bờ vực chiến tranh hủy diệt. Khủng hoảng chỉ kết thúc khi Liên Xô rút tên lửa khỏi Cuba để đổi lấy việc Mỹ bí mật rút tên lửa khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Quãng thời gian căng thẳng đó, ban lãnh đạo Mỹ và Liên Xô cũng như các nhà quan sát bên ngoài đã chứng kiến mức độ leo thang nhanh chóng của rủi ro hủy diệt toàn cầu.

Sự giằng co giữa đạo đức và lợi ích địa chính trị

Hoạt động ngoại giao đã được đẩy mạnh để ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân nổ ra. Đàm phán về một hiệp ước kiểm soát tình trạng phổ biến vũ khí hạt nhân đã diễn ra tại các cuộc họp của Ủy ban 18 quốc gia về giải giáp hạt nhân tại Geneva (Thụy Sĩ) từ năm 1965 - 1968. Trong các cuộc họp này, ký ức kinh hoàng từ Hiroshima và Nagasaki đã giúp thúc đẩy việc đàm phán. Tuy nhiên, lợi ích quốc gia vẫn chi phối mạnh các cuộc đàm phán đó.

Có 3 nhóm đàm phán. Mỹ có sự tham gia của các đồng minh NATO là Anh, Canada, Italy và Pháp (bên quan sát). Liên Xô đứng đầu khối các nước xã hội chủ nghĩa bao gồm Bulgaria, Tiệp Khắc, Ba Lan và Romania. Nhóm thứ 3 gồm những nước thuộc phong trào không liên kết, đó là Brazil, Myanmar, Ethiopia, Ấn Độ, Mexico, Nigeria, Thụy Điển (khi đó chưa gia nhập NATO) và Ai Cập.

Đối với các siêu cường, một hiệp ước hạn chế phổ biến vũ khí hạt nhân sẽ vừa là đòi hỏi đạo đức vừa là cơ hội chiến lược cho họ. Duy trì “câu lạc bộ hạt nhân” ở quy mô nhỏ sẽ không chỉ làm ổn định những căng thẳng quốc tế mà còn củng cố uy tín và vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ và Liên Xô.

Giới lãnh đạo Mỹ và Liên Xô do vậy tìm cách thúc đẩy không phổ biến vũ khí hạt nhân trên toàn cầu, không chỉ ở các nước đối thủ mà còn cả các đồng minh của họ.

Trong khi đó, nhiều nước trong khối các nước không liên kết lại tiếp cận kỷ nguyên nguyên tử thông qua lăng kính nhân đạo và đạo đức. Họ yêu cầu hành động có ý nghĩa nhằm loại bỏ vũ khí hạt nhân, bảo đảm không có thành phố nào nữa hứng chịu thảm kịch Hiroshima và Nagasaki.

Các nước không liên kết này từ chối chấp nhận một thỏa thuận “2 mặt” công nhận sự bất bình đẳng giữa những nước sở hữu và không sở hữu vũ khí hạt nhân. Để đổi lại việc đồng ý từ bỏ vũ khí hạt nhân, họ yêu cầu 2 cam kết then chốt nhằm hình thành điều mà giới sử gia gọi là “thỏa thuận lớn”.

Cụ thể, các nước không liên kết đồng ý trong hiệp ước cho phép các cường quốc hạt nhân đang tồn tại như Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô (nay là Nga) và Trung Quốc tạm thời duy trì kho vũ khí hạt nhân của mình trong khi vẫn cam kết giải giáp hạt nhân trong tương lai. Nhưng đổi lại, những nước không liên kết được hứa hẹn nhận công nghệ hạt nhân hòa bình để đáp ứng nhu cầu về năng lượng, y tế và phát triển. Để ngăn ngừa nguy cơ một nước nào đó biến vật liệu hạt nhân hòa bình thành vũ khí, Hiệp ước đã trao cho Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) quyền được thanh sát hạt nhân trên toàn thế giới.

Di sản và các giới hạn

Hiệp ước NPT có hiệu lực từ năm 1970. Với 191 quốc gia thành viên, đây là một trong những hiệp ước phổ biến nhất thế giới ngày nay. Nhưng ngay từ đầu, các điều khoản của hiệp ước này vẫn có những hạn chế. Ấn Độ và Pakistan (đều sở hữu vũ khí hạt nhân) luôn bác bỏ NPT. Israel cũng vậy. Triều Tiên về sau đã rút khỏi NPT để phát triển vũ khí hạt nhân của riêng mình.

Đối diện với những thách thức đó, các nỗ lực của IAEA ngày càng chặt chẽ hơn. Nhiều nước đồng ý chấp nhận thanh sát cơ sở hạt nhân khi được thông báo sớm hơn và có sử dụng những công cụ xâm nhập mạnh hơn để phát hiện việc phát triển những vũ khí mạnh nhất thế giới. Các nước trên thế giới sau đó mở rộng hiệp ước không giới hạn vào năm 1995, tái khẳng định cam kết không phổ biến vũ khí hạt nhân.

NPT thể hiện sự thỏa hiệp phức tạp giữa đạo đức và sự thực dụng, giữa ký ức đau đớn về Hiroshima - Nagasaki và địa chính trị góc cạnh. Nhưng dù có nhiều khiếm khuyết và tạo sự bất bình đẳng hạt nhân trên thực tế, NPT vẫn được ghi nhận là đã thu hẹp việc phổ biến hạt nhân vào 9 quốc gia ngày nay. NPT đạt được điều này thông qua các sáng kiến năng lượng hạt nhân dân sự và các cuộc thanh tra giúp các nước tự tin rằng đối thủ của mình không chế tạo tiếp vũ khí hạt nhân. Các nước cũng gây áp lực lên nhau để buộc các bên tuân thủ các quy định trong NPT. Hầu hết các nước vẫn thấy có lợi nếu ở lại trong NPT so với rút khỏi hiệp ước này.

Dẫu vậy, hiệp ước NPT tiếp tục đối diện với những thách thức nghiêm trọng. Giới phê bình cho rằng những điều khoản giải giáp hạt nhân vẫn mơ hồ và chưa được hoàn thành. Một số học giả thậm chí còn cho rằng những nước phi hạt nhân nên rút khỏi NPT để khuyến khích các cường quốc tự dỡ bỏ vũ khí hạt nhân của mình. Thực tế, các nước sở hữu vũ khí hạt nhân tiếp tục hiện đại hóa, thậm chí trong một số trường hợp còn mở rộng kho vũ khí hạt nhân của mình, làm xói mòn niềm tin vào “thỏa thuận lớn”.

Hơn nữa, một số nước vẫn dựa vào sự răn đe hạt nhân. Nga thường xuyên cảnh báo về khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân trong xung đột Ukraine, nhằm đạt các mục tiêu đối ngoại. Iran không loại trừ khả năng phát triển hạt nhân để răn đe các cuộc tấn công của Israel và Mỹ trong tương lai.

Vì lợi ích của toàn thể nhân loại, thảm kịch Hiroshima và Nagasaki nên đóng vai trò lời cảnh báo sắc lạnh chứ không phải là một tiền lệ cho những thảm kịch tương tự tiếp theo.

Xem thêm:

>> Thực hư mức độ tàn phá cơ sở hạt nhân Iran sau loạt bom của Mỹ và Israel

>> Nobel Hòa bình 2024 phản ánh nỗi sợ chiến tranh hạt nhân sau 8 thập kỷ

>> Xác suất nổ ra chiến tranh hạt nhân đã tăng gấp 10 lần

Từ khóa: hạt nhân, hiroshima, chiến tranh hạt nhân, nổ bom hạt nhân, ném bom nguyên tử, bom a, nagasaki, thành phố nhật bản, giằng co giữa đạo đức và lợi ích, tính toán địa chính trị, vũ khí hạt nhân, răn đe hạt nhân, thảm họa hạt nhân, thảm kịch hạt nhân, cơ chế ngăn chặn, không phổ biến vũ khí hạt nhân, npt, mỹ ném bom nguyên tử xuống nhật bản, bom khinh khí, bom nhiệt hạch

Thể loại: Pháp luật

Tác giả: trung hiếu/vov.vn biên dịch

Nguồn tin: VOVVN

Bình luận






Đăng nhập trước khi gửi bình luận Đăng nhập