
Chậm trễ ứng phó, Việt Nam có thể rơi vào “khủng hoảng lão hóa”
Cập nhật: 1 giờ trước
Xác định 2 kẻ gian trộm mủ cao su của người dân ở Quảng Trị
Chậm trễ ứng phó, Việt Nam có thể rơi vào “khủng hoảng lão hóa”
VOV.VN - Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ thuộc hàng nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ người cao tuổi gia tăng nhanh chóng đang đặt ra những thách thức lớn về y tế, an sinh xã hội. Các chuyên gia cảnh báo, nếu không có chiến lược ứng phó kịp thời, Việt Nam sẽ phải đối mặt với cuộc “khủng hoảng lão hóa” trong tương lai gần.
Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2019, Việt Nam đã chính thức bước vào quá trình già hóa dân số từ năm 2011. Tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên đã tăng từ 8,7% năm 2009 lên khoảng 11,9% vào năm 2019. Đến cuối năm 2023, đầu năm 2024, con số này tiếp tục tăng mạnh, dao động từ 14,2% - 16%. Dự báo, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn dân số già vào năm 2036 - 2038 và trở thành quốc gia có dân số “siêu già” vào năm 2050. Như vậy, chỉ trong vòng 17 - 20 năm, Việt Nam sẽ chuyển nhanh từ giai đoạn “già hóa” sang “dân số già”, tốc độ thuộc nhóm nhanh nhất thế giới (Pháp là 115 năm, Thụy Điển 89 năm và Mỹ 69 năm). Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia già hóa nhanh nhất, chỉ sau Singapore và Thái Lan và có tốc độ cao hơn nhiều nước như Indonesia, Philippines hay Campuchia.
TS. Nguyễn Minh Phong - nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu Kinh tế, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội nhận định, già hóa dân số đang là xu thế tất yếu trên phạm vi toàn cầu, song đặc điểm và tốc độ già hóa ở mỗi quốc gia lại rất khác nhau, phụ thuộc vào lịch sử, chính sách dân số và cơ cấu nhân khẩu học của từng nước.
Tại Việt Nam, đặc điểm dân số phản ánh rõ nét dấu ấn của một quốc gia từng trải qua chiến tranh và giai đoạn bùng nổ dân số sau đó. Những thế hệ sinh ra trong các thập niên 1960 - 1980 nay đã bước vào độ tuổi xế chiều. Trong khi đó, tỷ lệ sinh hiện nay đang chững lại, thậm chí có xu hướng giảm sâu, khiến quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh và ngày càng rõ nét. “Lấy một ví dụ đơn giản: Trước đây, một gia đình có tới 13 người con, thì nay những người con đó đều đã già, còn con cháu của họ lại chỉ sinh 1 - 2 con, thậm chí có người không lập gia đình hoặc không sinh con. Điều đó khiến tỷ lệ sinh thay thế không đủ để bù đắp, trong khi lớp người già tăng nhanh, dẫn tới mất cân bằng trong cơ cấu dân số”, TS. Nguyễn Minh Phong phân tích.
Ông Phong cho biết thêm, nhiều tổ chức nghiên cứu uy tín trên thế giới đều dự báo khả năng tăng trưởng dân số toàn cầu sẽ sớm bước vào giai đoạn âm trong một tương lai không xa. Đa phần các nước phát triển và đang phát triển hiện nay đều phải đối mặt với tình trạng tỷ lệ sinh thấp, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về lâu dài.
Một trong những hệ lụy lớn nhất của già hóa dân số là sự thiếu hụt lực lượng lao động - yếu tố sống còn đối với sự phát triển kinh tế. Khi tỷ lệ người già tăng nhanh, áp lực an sinh xã hội cũng theo đó gia tăng. Trong khi đó, nguồn lực từ số người trong độ tuổi lao động và tốc độ tăng trưởng kinh tế khó có thể bù đắp được gánh nặng ngày càng lớn từ nhóm dân số không còn khả năng lao động.
TS.BS. Hoàng Tú Anh, chuyên gia đến từ Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số cho biết, Việt Nam hiện có khoảng 16,1 triệu người cao tuổi, chiếm trên 16% tổng dân số. Con số này đặt ra thách thức lớn đối với hệ thống chăm sóc y tế, an sinh xã hội, lao động và các dịch vụ hỗ trợ cộng đồng. Trong đó, lĩnh vực y tế đang chịu áp lực nặng nề khi người cao tuổi là nhóm có tỷ lệ mắc bệnh không lây nhiễm cao như tim mạch, tiểu đường, loãng xương, ung thư - những bệnh lý đòi hỏi theo dõi và điều trị liên tục. Ngoài ra, người cao tuổi còn dễ mắc các bệnh đặc trưng như sa sút trí tuệ, trầm cảm và dễ bị tổn thương bởi các bệnh truyền nhiễm do hệ miễn dịch suy giảm.
“Dịch vụ chăm sóc dài hạn cũng đang là khoảng trống lớn. Số lượng trung tâm dưỡng lão công lập có chất lượng còn rất ít, với chưa đến 1% người cao tuổi được tiếp cận - chủ yếu là những người có công với đất nước hoặc có hoàn cảnh đặc biệt. Phần lớn việc chăm sóc vẫn do gia đình đảm nhiệm, mà cụ thể là phụ nữ. Trong bối cảnh di cư lao động ngày càng phổ biến, nhiều người trẻ rời quê làm ăn xa, khiến tình trạng “người già chăm người già” ngày càng phổ biến ở nhiều địa phương. Việt Nam cũng thiếu nghiêm trọng đội ngũ chăm sóc chuyên nghiệp. Dự kiến đến năm 2045, với dân số cao tuổi tăng mạnh, nước ta sẽ cần hàng trăm nghìn nhân viên chăm sóc được đào tạo bài bản. Theo khuyến nghị của WHO, mỗi 100.000 người từ 65 tuổi trở lên cần khoảng 5.000 nhân viên chăm sóc”, bà Hoàng Tú Anh cho hay.
Từ trải nghiệm sinh sống và làm việc tại Hà Lan, TS.BS. Tú Anh chia sẻ mô hình chăm sóc người cao tuổi của nước này ưu tiên để người già được sống tại nhà, thay vì đưa vào các cơ sở chăm sóc nếu không thật sự cần thiết. Với cách làm này, người cao tuổi duy trì được sự độc lập, thoải mái và kết nối xã hội. Mạng lưới chăm sóc tại nhà ở Hà Lan rất chuyên nghiệp, kết hợp giữa nhân viên y tế đến khám định kỳ và cán bộ xã hội hỗ trợ sinh hoạt thường xuyên.
Theo TS.BS Tú Anh, Việt Nam có thể học tập mô hình của Hà Lan thông qua việc phát triển mạng lưới chăm sóc tại nhà linh hoạt, phù hợp với đặc điểm y tế cơ sở và văn hóa cộng đồng. Cần thiết lập và đào tạo đội ngũ chăm sóc chuyên nghiệp tại cộng đồng, lấy cán bộ y tế phường, xã, thôn, xóm và cộng tác viên y tế làm nòng cốt. Đồng thời, có cơ chế đào tạo, hỗ trợ tài chính cho người chăm sóc không chuyên trong gia đình, tôn trọng quyền tự quyết của người cao tuổi trong việc lựa chọn hình thức chăm sóc, thúc đẩy ứng dụng công nghệ và xây dựng quỹ chăm sóc dài hạn với sự tham gia của bảo hiểm y tế, ngân sách nhà nước và người dân.
Để đáp ứng được nhu cầu chăm sóc ngày càng lớn, đặc biệt đối với nhóm người cao tuổi neo đơn, không nơi nương tựa, Việt Nam cần sớm ban hành khung chính sách toàn diện, làm rõ vai trò của các bên liên quan và thiết lập tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ. Mạng lưới dịch vụ cần đa dạng, gồm chăm sóc tại nhà, cộng đồng, trung tâm công lập và mô hình phi lợi nhuận, đảm bảo khả năng tiếp cận công bằng cho mọi đối tượng. Song song với đó, cần tăng cường đào tạo và có chế độ đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ bác sĩ, điều dưỡng, nhân viên xã hội chuyên ngành lão khoa, đồng thời hỗ trợ người chăm sóc không chuyên trong cộng đồng.
Dự báo đến năm 2045, Việt Nam sẽ có khoảng 18 triệu người cao tuổi, chiếm 20% dân số. Nếu không có các hành động kịp thời và chiến lược phù hợp, nguy cơ xảy ra “khủng hoảng già hóa” là hoàn toàn hiện hữu, kéo theo hàng loạt hệ lụy như: gia tăng số người cao tuổi không nơi nương tựa, gánh nặng chăm sóc đổ dồn lên vai gia đình, đặc biệt là phụ nữ, thiếu hụt lao động trẻ và áp lực lớn lên hệ thống y tế, an sinh xã hội. “Để ứng phó, Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp, từ hoàn thiện dữ liệu, xây dựng khung pháp lý toàn diện, tái cấu trúc hệ thống y tế thân thiện với người cao tuổi, phát triển dịch vụ chăm sóc tại cộng đồng, cải cách an sinh xã hội và tăng cường ứng dụng công nghệ. Đồng thời, cần thay đổi nhận thức xã hội, giảm định kiến cho rằng người cao tuổi là gánh nặng, để xây dựng một xã hội bao trùm, nơi người cao tuổi được sống khỏe mạnh, an toàn và có phẩm giá”, bà Hoàng Tú Anh khuyến cáo.
Theo các chuyên gia lão khoa, trung bình mỗi người Việt Nam trên 60 tuổi mắc khoảng 3 - 4 bệnh mãn tính, còn người trên 80 tuổi có thể mắc tới hơn 6 bệnh cùng lúc. Trong khi nhu cầu chăm sóc y tế tăng cao thì hệ thống y tế hiện nay vẫn chưa đáp ứng được. Cả nước hiện chỉ có 1 bệnh viện lão khoa tuyến trung ương, trong khi nhiều bệnh viện tuyến tỉnh vẫn chưa có chuyên khoa lão khoa.
Nguồn nhân lực ngành y tế cũng thiếu hụt trầm trọng, với tỷ lệ bác sĩ chuyên khoa lão chỉ đạt 0,8 trên tổng số 100.000 người cao tuổi, thấp hơn rất nhiều so với khuyến nghị 100 bác sĩ của Tổ chức Y tế Thế giới. Đồng thời, chi phí y tế dành cho người cao tuổi ngày càng tăng do nhu cầu sử dụng các dịch vụ kỹ thuật cao, thuốc điều trị đắt tiền, tạo áp lực lớn lên quỹ bảo hiểm y tế và ngân sách nhà nước.
Từ khóa: già hóa, già hóa dân số, khủng hoảng lão hóa, áp lực an sinh xã hội, ứng phó với già hóa dân số
Thể loại: Xã hội
Tác giả: chung thủy/vov.vn
Nguồn tin: VOVVN